Mấu chốt của trung tâm tài chính

10/03/2025
|
0 lượt xem
Góc Nhìn Kinh Doanh
Mấu chốt của trung tâm tài chính

Tầm nhìn này đã được lãnh đạo đất nước ấp ủ từ lâu và đang có cơ hội trở thành hiện thực sau khi Bộ Chính trị thông qua chủ trương, định hướng và giải pháp lớn thành lập Trung tâm Tài chính quốc tế tại TP HCM và khu vực tại Đà Nẵng với lộ trình từ nay đến năm 2035.

TP HCM và Đà Nẵng cũng đã xúc tiến những công việc ban đầu, có sự đồng hành của các bộ, ngành liên quan.

Trung tâm dịch vụ tài chính quốc tế (IFSCs) hoặc trung tâm tài chính toàn cầu (GFCs) không phải là mô hình mới, thế giới đã có cách đây 150 năm, với những trung tâm nổi tiếng như New York, London, Singapore, Hong Kong, Frankfurt, Tokyo...

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trung tâm tài chính quốc tế, hiểu đơn giản nhất là khu vực, quốc gia đóng vai trò cửa ngõ lớn cho thị trường vốn - tiền tệ cho doanh nghiệp, chính phủ; thu hút nhiều giao dịch tài chính quốc tế. Các trung tâm tài chính quốc tế vì thế sẽ góp phần nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của quốc gia trong hệ thống tài chính toàn cầu.

Theo bảng xếp hạng mới nhất năm 2025 của Tạp chí CEOWorld, trong số 115 trung tâm được đánh giá, New York vẫn giữ vị trí số một, tiếp đến là Singapore, London (3), Hong Kong (5), Tokyo (9), Bắc Kinh (15), Thẩm Quyến (24), Quảng Châu (29), Kuala Lumpur (40), Mumbai (49), Bangkok (59), Taipei (69), Jakarta (73). TP HCM đứng thứ 89 - cao hơn một số trung tâm khác trong khu vực như Hàng Châu (93), Manila (99).

Còn theo xếp hạng của Trung tâm Nghiên cứu tại London (Z/Yen) phối hợp với Viện Phát triển Trung Quốc (tháng 9/2024), TP HCM xếp thứ 105/121 trung tâm được xếp hạng.

Các tiêu chí đánh giá chủ yếu bao gồm: môi trường kinh doanh, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, mức độ phát triển của thị trường tài chính, và danh tiếng của thành phố đặt trung tâm. Mục tiêu của Việt Nam là trở thành một trong 20 trung tâm tài chính quốc tế hàng đầu sau năm 2045.

Rõ ràng quyết tâm chính trị của Việt Nam rất cao và là một trong những điều kiện tiên quyết để đề án có thể thành công. Vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện. Đây lại chưa phải là thế mạnh, thậm chí là khâu yếu của Việt Nam. Đối với đề án quan trọng này, vẫn còn rất nhiều việc phải làm.

Khi được hỏi tham khảo ý kiến nhiều năm trước, tôi đã nêu ra ba điểm mấu chốt liên quan đến bản chất của trung tâm tài chính cần được nhận thức rõ và nhất quán từ đầu, để có sự chuẩn bị thận trọng, khả thi và phù hợp.

Một là, vấn đề tự do hóa tài khoản vốn. Đây là quá trình mở cửa cho phép dòng vốn (cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp, vay nợ...) được tự do "vào ra" qua biên giới quốc gia. Lợi ích chính của chính sách này là tăng khả năng thu hút nguồn vốn với chi phí hợp lý, đa dạng hóa, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả huy động và phân bổ nguồn vốn. Chính sách này cũng góp phần tăng đổi mới sáng tạo và tính cạnh tranh trên thị trường tài chính, thúc đẩy hội nhập tài chính của quốc gia.

Về lý thuyết, tự do hóa tài khoản vốn cũng có thể thúc đẩy phát triển thị trường tài chính trong nước và góp phần tăng trưởng kinh tế, nhưng thực tế nghiên cứu của tác giả Echchafi (2024) đối với 92 quốc gia trong giai đoạn 1995-2019 cho thấy mối quan hệ này là không rõ nét, không có ý nghĩa thống kê.

Rủi ro chính của quá trình này là mức độ bất ổn kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính - tiền tệ, rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố... gia tăng do dòng vốn được tự do luân chuyển, nhà đầu tư có thể rút vốn hàng loạt, bất ngờ khi kinh tế bất trắc, chính sách thay đổi đột ngột, như từng xảy ra đối với Argentina (1982), Mexico (1994) và Thái Lan (1997-1998). Rủi ro này dễ xảy ra hơn ở những quốc gia có thể chế yếu, quản lý - giám sát còn bất cập, và kinh tế vĩ mô thiếu ổn định. Rủi ro lan truyền xuyên quốc gia cũng cần lưu ý, như từng xảy ra trong các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thời gian qua. Việt Nam hiện nay đang kiểm soát khá chặt chẽ tài khoản vốn, dòng vốn vào - ra nền kinh tế.

Vấn đề thứ hai là khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ, giúp các nhà đầu tư, thành viên thị trường có thể chuyển đổi tiền tệ một cách dễ dàng khi có nhu cầu và cũng là tăng sức mạnh đồng tiền. Tuy nhiên, điểm mấu chốt thúc đẩy khả năng này là sức mạnh của nền kinh tế, môi trường chính trị, kinh tế vĩ mô ổn định, và chất lượng thể chế - chính sách quản lý thị trường tài chính - tiền tệ nói chung và tỷ giá nói riêng. Những điều kiện này cũng giúp đồng tiền đó trở thành đồng tiền mạnh hay không. Đồng tiền Việt Nam (VND) hiện chưa có được những yếu tố này, nên về cơ bản vẫn là một đồng tiền yếu, tính hấp dẫn và khả năng chuyển đổi ở mức thấp; đòi hỏi nhất quán và quyết tâm chính trị, phối hợp chính sách dài hơi để hiện thực hóa vấn đề này.

Thứ ba là tài chính - tiền tệ số. Trong bối cảnh xu hướng chuyển đổi số, tài sản số và tiền kỹ thuật số đang diễn ra mạnh mẽ, thanh toán không tiền mặt tăng nhanh (doanh thu giao dịch thanh toán số toàn cầu tăng 9%/năm giai đoạn 2018-2023 và sẽ tiếp tục tăng khoảng 5% giai đoạn 2023-2028), nên các giao dịch tài chính - tiền tệ hiện nay và sắp tới chủ yếu là giao dịch điện tử, giao dịch số.

Tại Việt Nam, Quyết định 810/QĐ-NHNN/2021 đặt mục tiêu cuối năm 2025, có đến 50-70% giao dịch ngân hàng với khách hàng được thực hiện qua các kênh số và đến năm 2030, tỷ lệ này dự kiến đạt 70-80%. Số hóa giao dịch chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư... có thể chậm hơn, nhưng chắc chắn là một phần đang diễn ra trên môi trường số. Các nước trong khu vực cũng đang theo lộ trình này, nên có thể nói, giao dịch tài chính thời gian tới sẽ qua các kênh số là chủ yếu và lộ trình có thể diễn ra nhanh hơn, nhất là các giao dịch Fintech, thanh toán, cho vay và đầu tư...

Vì thế, việc chúng ta tập trung xây dựng nhiều tòa cao ốc làm trụ sở văn phòng cho các tổ chức tài chính, các nhà đầu tư, các tổ chức hỗ trợ khác (như xếp hạng tín nhiệm, kiểm toán, định giá tài sản, tư vấn, trung tâm thương mại....) có lẽ cần tính toán sát hơn với xu thế số hóa và làm việc từ xa, giao dịch điện tử này; giảm thiểu tồn kho, dư thừa các tòa cao ốc tài chính...

Những điểm mấu chốt trên có thể là cách tiếp cận thực dụng, thực chất và dài hơi cần tính đến ngay từ bây giờ, thể hiện tầm nhìn và đảm bảo mục tiêu lớn là "tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả".

Cấn Văn Lực

Tin liên quan
Tin Nổi bật